Thứ năm, 14/05/2015, 10:06:10
Phiên bản di động Phiên bản đầy đủ

TÀI LIỆU KỲ HỌP



TÀI LIỆU PHIÊN HỌP TT HĐND

Tin tức / Văn hóa – đời sống

A+ | A | A-

Hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục miền núi

Người đăng: Administrator Account Ngày đăng: 20:25 | 30/12 Lượt xem: 28251

Những năm qua, được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và sự chung tay, góp sức của cộng đồng, diện mạo giáo dục miền núi Quảng Nam đã khởi sắc, có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, xét trên bình diện chung, vẫn còn sự cách biệt đáng kể giữa chất lượng giáo dục miền núi với vùng đồng bằng, đô thị. Điều đó đòi hỏi trong thời gian đến cần có thêm những cơ chế, chính sách để tập trung nguồn lực, tạo đột phá hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục miền núi.

Những chuyển biến tích cực

Quảng Nam có 09 huyện miền núi, diện tích hơn 783.000 ha (chiếm 74,06% diện tích toàn tỉnh), dân số hơn 306 nghìn người (20,38% dân số toàn tỉnh). Tại các huyện miền núi có 79/102 xã đặc biệt khó khăn, địa bàn hiểm trở là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc thiểu số, có đời sống khó khăn (có 17.449 hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 20,85%).

Với quan điểm đặc biệt quan tâm đầu tư nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo được tỉnh ta xác định là một trong những ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước đã huy động nhiều nguồn vốn khác nhau, tập trung đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ giáo dục. Chỉ tính riêng trong 05 năm qua, đã có hơn 1.000 tỉ đồng đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục miền núi của tỉnh.


 
 Một lớp học Mầm non ở xã vùng cao huyện Phước Sơn

Nhờ sự quan tâm đầu tư và các chính sách hỗ trợ đặc thù mà giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã có những khởi sắc, mang lại một diện mạo mới. Đến nay, mạng lưới, quy mô trường lớp từ mầm non đến trung học phổ thông ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được củng cố và phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu học tập cho con em đồng bào các dân tộc trong độ tuổi đến trường. Hệ thống trường, lớp học được quan tâm đầu tư xây dựng ngày càng khang trang, đảm bảo điều kiện tối thiểu để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Nhiều thôn, bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới đã có lớp mầm non; hầu hết các xã có trường tiểu học ở khu vực trung tâm và trường trung học cơ sở; các huyện đều có trường trung học phổ thông. Đặc biệt, mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú đã đóng góp lớn trong tạo nguồn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ học sinh đến trường tăng cao, tỷ lệ học sinh bỏ học ngày càng giảm. Phát triển số lượng trường, lớp 2 buổi/ngày ở cấp tiểu học, mở rộng quy mô trường, lớp dạy môn Tiếng Anh, Tin học. Kỹ cương, nề nếp trong công tác quản lý và dạy học được duy trì, chuyển biến tốt. Môi trường giáo dục an toàn, thân thiện được cải thiện. Công tác giáo dục học sinh dân tộc thiểu số được quan tâm đúng mức, chú trọng giáo dục toàn diện cho học sinh và giáo dục kỹ năng sống, thực hiện tốt việc phòng, chống các tệ nạn xã hội, tai nạn thương tích...

Việc xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia được xem là giải pháp tổng thể để nâng cao chất lượng giáo dục. Tính đến tháng 7.2020, ở 09 huyện miền núi có 126/262 trường đạt chuẩn quốc gia, tỉ lệ 48% (trong đó mức độ 2 có 11 trường, tỉ lệ 8,7%).

Ngoài ra, các chính sách cho học sinh vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm chính sách học bổng; miễn giảm học phí; trợ cấp xã hội, hỗ trợ học tập; chính sách ưu tiên tuyển sinh vào đại học, cao đẳng; chính sách phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người... đang được thực hiện; đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục được hưởng các chính sách ưu đãi gồm: Phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thu hút, phụ cấp thâm niên vượt khung, trợ cấp chuyển vùng, trợ cấp học tập, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ... đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục miền núi.

Vẫn còn khoảng cách về chất lượng giáo dục

Tuy nhiên, xét trên bình diện chung chất lượng giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn còn thấp, mức độ tiếp cận các dịch vụ còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ con em dân tộc thiểu số đi học đúng độ tuổi còn thấp. Tỉ lệ học sinh tiểu học được học 2 buổi/ngày đạt 75,8%, thấp hơn mặt bằng chung của tỉnh là 14,6%. Tỉ lệ học sinh lớp 1,2 học tiếng Anh là 33,7%, thấp hơn mặt bằng chung là 35,8%. Tỉ lệ học sinh lớp 3,4,5 học Tin học là 84,7%, thấp hơn mặt bằng chung là 10,8%. Tỉ lệ trường đạt chuẩn quốc gia chỉ đạt 48% (mặt bằng chung của tỉnh là 66%) và chưa có trường trung học phổ thông đạt chuẩn mức độ 2. Số lượng  lớp ở các trường mầm  non, tiểu học còn nhiều: mầm non có 360 nhóm, lớp ghép; tiểu học có 151 lớp ghép (còn có 06 lớp ghép 3 trình độ), ảnh hưởng đến việc đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục.

Đội ngũ giáo viên các tỉnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn thiếu, đặc biệt là giáo viên mầm non. Năng lực và chuẩn đào tạo, kỹ năng sư phạm của một bộ phận nhà giáo vùng cao còn yếu, chưa có nhiều điều kiện để tiếp cận phương pháp giảng dạy mới... Chính sách sử dụng, đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên còn một số điểm bất cập, chưa tạo động lực về vật chất và tinh thần để khuyến khích, thu hút giáo viên có tâm huyết với nghề và phát triển sự nghiệp giáo dục, tình trạng thiếu giáo viên kéo dài.

Chất lượng giáo dục toàn diện ở các huyện miền núi cao tuy có chuyển biến nhưng học sinh chưa tích cực trong việc tự học, tự nghiên cứu; chất lượng  không đồng đều giữa các trường; kiến thức, kỹ năng các môn Tiếng Anh, Tin học còn yếu so với học sinh các huyện đồng bằng.

Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là các văn bản hướng dẫn còn chậm so với quy định và yêu cầu thực tiễn. Một số chính sách ban hành có hiệu lực trong thời gian ngắn, chưa có tính dự báo dài hạn và liên tục. Có chính sách ban hành chậm, thiếu đồng bộ; một số nội dung chính sách còn bất cập; không thống nhất giữa quy định của Luật Giáo dục với nghị định, thông tư hướng dẫn tổ chức thực hiện.

Cơ sở vật chất của các trường tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng vẫn còn nhiều trường chưa đạt chuẩn theo quy định của Bộ Giáo dục - Đào tạo, nhiều trường thiếu phòng học, phòng bộ môn, nhà vệ sinh... Trang thiết bị dạy học còn thiếu, các điều kiện tổ chức nội trú, bán trú cho học sinh chưa được đảm bảo. Tài liệu, sách hỗ trợ giáo dục đạo đức, rèn luyện kỹ năng sống và phát triển văn hóa đọc trong nhà trường còn thiếu.

Hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục miền núi

Dự kiến tại kỳ họp thứ 21 (kỳ họp chuyên đề) của HĐND tỉnh khóa IX sẽ xem xét đề án Hỗ trợ phát triển giáo dục miền núi tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2021-2025 nhằm ban hành những cơ chế, chính sách để tập trung nguồn lực, tạo đột phá, hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục miền núi. Trong đó, cần quan tâm một số nội dung như sau:

- Trước hết, phải tăng nguồn đầu tư cho công tác phát triển giáo dục; phối hợp đồng bộ giữa chính sách của Đảng và Nhà nước với hoạt động của ngành giáo dục và sự đóng góp của toàn dân cho sự nghiệp giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Xã hội hóa giáo dục để toàn dân cùng tham gia đóng góp. Ước tính cần hơn 2.500 tỉ đồng đầu tư cho giáo dục của các huyện miền núi giai đoạn 2021-2025 (gấp 2,5 lần so với giai đoạn 05 năm trước).

- Rà soát, quy hoạch hệ thống mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục phù hợp với điều kiện của vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), miền núi. Bố trí quỹ đất xây dựng các cơ sở giáo dục tại các huyện miềm núi đảm bảo đáp ứng nhu cầu phát triển tại mỗi địa phương gắn với sắp xếp dân cư. Tập trung nguồn lực, tích cực thực hiện các giải pháp để các cơ sở giáo dục các huyện miền núi có đủ điều kiện tổ chức bán trú cho học sinh. Thực hiện việc sắp xếp hệ thống trường, lớp ở các bậc học, cấp học theo hướng chuẩn hóa.

- Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý đảm bảo đủ về số lượng, chuẩn về nghề nghiệp, hợp lý về cơ cấu, tăng cường giáo viên là người dân tộc thiểu số (DTTS). Đào tạo đội ngũ giáo viên là người DTTS có trình độ cả về sư phạm và kiến thức cho từng vùng, từng dân tộc. Xây dựng chế độ đãi ngộ và sử dụng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục phù hợp với yêu cầu thực tiễn để họ yên tâm với nghề nghiệp, gắn bó với địa phương. Đồng thời, tăng cường việc bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng DTTS; đổi mới sinh hoạt chuyên môn, chú trọng hình thức sinh hoạt chuyên môn theo cụm, khối, tổ, nhóm, tập trung và qua mạng.

- Đa dạng hóa, phát triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc thiểu số; ưu tiên đào tạo vừa học vừa làm; đưa chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú; phát triển các loại mô hình trường dạy nghề gắn với các doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội địa phương, trong đó ưu tiên đào tạo con em đồng bào vùng DTTS và miền núi. Tăng quy mô huy động trẻ ra lớp ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, phát triển mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi.

- Đảm bảo chính sách hỗ trợ đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Thực hiện tốt các chính sách của Trung ương đã và sắp ban hành liên quan đến giáo dục miền núi; sửa đổi, bổ sung những chính sách đã ban hành nhưng không còn phù hợp với thực tế hiện nay; nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách mới đặc thù của tỉnh về hỗ trợ cho giáo viên, học sinh, cán bộ quán lý giáo dục, đầu tư cho giáo dục miền núi...

Tác giả: Nguyễn Nhật Hòa

[Trở về]

Các tin mới:

Các tin khác:

Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên và khát vọng dân chủ


Liên kết web

select

Liên kết Website