Trang chủ > Thông tin tuyên truyền trung ương, địa phương
Những nội dung trọng tâm trong Nghị quyết 193/2025/QH15 của Quốc hội
Ngày đăng:
16:57 | 19/03/2025
Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia bao gồm nhiều nội dung quan trọng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến 03 vấn đề
Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia bao gồm nhiều nội dung quan trọng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến 03 vấn đề: (i) khẩn trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế; (ii) xóa bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; (iii) đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Với tinh thần khẩn trương tháo gỡ khó khăn, sớm đưa Nghị quyết 57-NQ/TW vào cuộc sống giúp tạo xung lực mới, sinh khi mới, tạo đột phá cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Tại kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết 193/2025/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Với 04 chương 17 điều, ngoài 05 điều khoản chung, tên mỗi điều trong Nghị quyết đều được thể hiện với những ngôn từ đơn giản nhưng mang tính thông điệp sâu sắc, mạnh mẽ. Cụ thể:
(1) Tổ chức khoa học và công nghệ công lập, nhà khoa học thuộc các tổ chức công lập được phép thành lập, điều hành doanh nghiệp hình thành dựa trên kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) và phát triển công nghệ (PTCN) của chính mình.
(2) Chấp nhận rủi ro trong NCKH và PTCN. Có thể nói đây là một trong những điểm nghẽn kéo dài. Gốc của vấn đề chính là các cơ quan quản lý muốn tránh rủi ro nên đã đề ra nhiều thủ tục phức tạp, dồn trách nhiệm lên các tổ chức KH&CN khiến các tổ chức KH&CN, các nhà khoa học không dám nhận hoặc đề xuất những vấn đề nghiên cứu lớn, vượt ra ngoài kiến thức hiện có vốn có độ rủi ro cao, đặc biệt là các đề tài nghiên cứu cơ bản. Trái ngược với thực tế như trên, công việc NCKH và PTCN lại có bản chất rủi ro, là một loại đầu tư có tính mạo hiểm. Theo đó, Nghị quyết 193 đã có điều khoản miễn trách nhiệm dân sự cho tổ chức KH&CN, cá nhân nhà khoa học khi gây ra thiệt hại cho nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước.
(3) Việc cấp kinh phí NCKH và PTCN theo cơ chế quỹ sẽ mang lại nhiều lợi ích quan trọng cho cả các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động KH&CN và cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể như: tăng tính chủ động và linh hoạt, không bị ràng buộc chặt chẽ bởi quy trình ngân sách nhà nước; có cơ chế huy động và đa dạng hóa nguồn vốn; tăng cường hiệu quả quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước; thúc đẩy việc triển khai các chương trình, nhiệm vụ KH&CN có tính dài hạn.
(4) Cơ chế khoán chi trong thực hiện NCKH và PTCN được áp dụng đối với hầu hết các nội dung chi trong một nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước. Nhà nước sẽ quản lý việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN thông qua đánh giá các giai đoạn trong quá trình nghiên cứu, trên cơ sở đó tiếp tục cấp kinh phí.
(5) Nghị quyết cho phép giao quyền sở hữu, quản lý, sử dụng tài sản hình thành từ việc triển khai nhiệm vụ KH&CN một cách tự động, không phải thực hiện thủ tục hành chính ngoại trừ một số trường hợp cụ thể. Các tổ chức KH&CN được phép sở hữu, quản lý, sử dụng tài sản hình thành theo quy định pháp luật tương ứng với loại hình tổ chức tương ứng.
(6) Vấn đề thương mại hóa kết quả NCKH và PTCN, đây cũng là điểm nghẽn lớn kéo dài. Trên nguyên tắc, kết quả nghiên cứu phải được thương mại hóa thì mới góp phần cho phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó Nghị quyết thí điểm cho phép tổ chức KH&CN được sở hữu và có quyền tự quyết đối với kết quả nghiên cứu do mình tạo ra, với tài sản hình thành từ thực hiện nhiệm vụ KH&CN để chủ động trong việc thương mại hóa ngay sau khi kết thúc nhiệm vụ. Có thể xem rằng đây là chính sách rất mạnh mẽ để thương mại hóa kết quả hình thành từ NCKH và PTCN, kể cả các kết quả có được trong những năm trước, qua đó tạo ra ích nước lợi nhà. Một khi kết quả nghiên cứu được thương mại hóa thì nhà nước sẽ thu được thông qua thuế, tạo ra công ăn việc làm, đất nước có trình độ KHCN cao hơn. Đây là cách thu hồi gián tiếp của nhà nước với các khoản chi KH&CN.
(7) Nghị quyết cũng thí điểm việc cho phép doanh nghiệp chi cho KH&CN ngoài Quỹ KH&CN và được tính là chi phí hợp lệ, được khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp có thể chi cho KH&CN nhiều hơn 10% lợi nhuận trước thuế và cũng không bị ràng buộc bởi các quy định chặt chẽ của Quỹ. Lâu nay, việc giới hạn chi KH&CN được hưởng ưu đãi thuế chỉ trong phạm vi Quỹ đã làm cho các doanh nghiệp Việt Nam chi cho hoạt động KH&CN ít hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Do đó chính sách khấu trừ thuế cho các khoản chi KH&CN được xem như việc nhà nước chung tay với doanh nghiệp để đầu tư cho KH&CN, để khuyến khích doanh nghiệp chi cho KH&CN.
(8) Về hoạt động chuyển đổi số quốc gia, cần nhất một chữ “nhanh”, nhất là cho 02 năm 2025-2026 để tạo nhanh các nền tảng và động lực cho chuyển đổi số quốc gia trong những năm sau. Theo đó, Nghị quyết cho phép sử dụng ngân sách trung ương để triển khai các nền tảng số dùng chung và chỉ định thầu các dự án chuyển đổi số.
(9) Về hạ tầng viễn thông, Nghị quyết cho phép hỗ trợ 15% chi phí bình quân thiết bị BTS 5G đối với doanh nghiệp phát triển tối thiểu 20.000 BTS 5G trong năm 2025 và cho phép chỉ định thầu hoặc áp dụng thông lệ quốc tế trong việc lựa chọn nhà thầu triển khai cáp quang biển quốc tế.
(10) Về dịch vụ viễn thông vệ tinh tầm thấp, đây là công nghệ mới, phủ sóng băng rộng cho vùng sâu, vùng đồi núi rất hiệu quả. Để thu hút đầu tư nước ngoài, Nghị quyết cho phép thí điểm có kiểm soát dịch vụ viễn thông sử dụng công nghệ vệ tinh quỹ đạo tầm thấp với sở hữu nước ngoài tới 100% nhưng phải đảm bảo quốc phòng - an ninh, chủ quyền quốc gia.
(11) Về công nghiệp bán dẫn, đây là ngành công nghiệp chiến lược. Việt Nam đặt mục tiêu phát triển đầy đủ tất cả các công đoạn của ngành công nghiệp này, trong đó khó khăn nhất là nhà máy sản xuất. Nhất là nhà máy sản xuất vi mạnh đầu tiên, rất quan trọng cho nghiên cứu, chế thử các vi mạch được thiết kế ở Việt Nam, rất quan trọng cho việc sản xuất các vi mạch chuyên dùng của Việt Nam, cho đào tạo nhân lực, nhất là lĩnh vực quốc phòng – an ninh. Để thu hút doanh nghiệp tham gia đầu tư và vận hành, Nghị quyết cho phép cơ chế hỗ trợ 30% tổng mức đầu tư dự án trực tiếp từ ngân sách trung ương trong trường hợp nhà máy nghiệm thu đưa vào sản xuất trước ngày 31 tháng 12 năm 2030. Tổng mức hỗ trợ không vượt quá 10.000 tỷ đồng.
Tác giả:
Thành Nhân
Nguồn tin:
Tổng hợp theo tài liệu giới thiệu Nghị quyết của Bộ Khoa học và Công nghệ
BÀI LIÊN QUAN:
Học Bác mỗi ngày, từ những điều bình dị ( Ngày đăng: 15:27 | 13/06 )Theo thống kê trong 10 năm qua, toàn tỉnh đã có gần 25.000 mô hình đăng ký học tập và làm theo Bác trên tất cả các lĩnh vực. Qua đó đã khen thưởng 1.200 tập thể, cá nhân, trong đó cấp tỉnh là 210 tập thể, cá nhân; cấp huyện là 990 tập thể, cá nhân
Quảng Nam phát động phong trào “Bình dân học vụ số” ( Ngày đăng: 16:47 | 18/04 )Sáng nay 18/4, tại Hội trường số 1 UBND tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam phát động phong trào “Bình dân học vụ số” – một chương trình mang tính đột phá trong chiến lược chuyển đổi số toàn diện, nhằm phổ cập kiến thức công nghệ số cho mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng xã hội học tập trong kỷ nguyên 4.0.