Nghị định 78/2025/NĐ-CP ngày 01.4.2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã đề cập nhiều nội dung rất mới so với các quy định trước. Trong đó có quy định liên quan nội dung, hình thức văn bản để bãi bỏ, đính chính văn bản QPPL; quy định về trách nhiệm, nội dung thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý dự thảo văn bản QPPL.
Bãi bỏ, đính chính văn bản QPPL bằng văn bản hành chính
Khoản 3 Điều 4 Nghị định 78 quy định “3. Cơ quan, người có thẩm quyền có thể ban hành nghị quyết hoặc quyết định hành chính để bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành trong trường hợp toàn bộ hoặc một phần nội dung văn bản trái pháp luật hoặc trường hợp thay đổi về thẩm quyền do việc sắp xếp, tổ chức bộ máy hoặc trường hợp không còn đối tượng áp dụng”. Như vậy, so với trước đây và quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Ban hành VBQPPL thì việc bãi bỏ văn bản QPPL đã có thay đổi theo hướng thuận lợi hơn, giảm lượng VBQPPL phải ban hành chỉ để bãi bỏ VBQPPL trước đó.
Đính chính VBQPPL cũng được quy định cụ thể về các trường hợp được phép đính chính, chủ thể đính chính và hình thức văn bản thực hiện đính chính. Cụ thể khoản 1 Điều 9 Nghị định 78 quy định rõ việc đính chính chỉ áp dụng đối với trường hợp “Văn bản quy phạm pháp luật sau khi được ban hành nếu phát hiện có sai sót về căn cứ ban hành, lỗi chính tả hoặc sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày”. Đồng thời phải đảm bảo yêu cầu “Việc đính chính không làm thay đổi nội dung của quy định trong văn bản gốc và không áp dụng đối với những sai sót về thẩm quyền, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật”. Quy định này sẽ giúp hạn chế việc sử dụng kỹ thuật đính chính để điều chỉnh về mặt nội dung của VBQPPL.
Về thẩm quyền và hình thức văn bản đính chính, khoản 2 Điều 9 Nghị định 78 quy định nguyên tắc cơ quan, người có thẩm quyền ban hành thì có thẩm quyền đính chính, trừ VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, HĐND, UBND.
Việc đính chính VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ do cơ quan trình nội dung thực hiện, sau khi được UBTVQH đồng ý. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đính chính văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ do mình chủ trì soạn thảo sau khi được Thủ tướng Chính phủ đồng ý.
Thường trực Hội đồng nhân dân đính chính văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cùng cấp; Chủ tịch Ủy ban nhân dân đính chính văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Hình thức văn bản đính chính có thể là nghị quyết hoặc quyết định hành chính, tùy vào chủ thể có thẩm quyền đính chính.
Bổ sung quy định thẩm định, thẩm tra
Trình tự xây dựng, ban hành nghị quyết QPPL của HĐND cấp tỉnh được quy định cụ thể từ Điều 44 đến Điều 48. Trước các điều này, quy định về “đăng ký xây dựng nghị quyết” được quy định tại khoản 1 Điều 43 với 02 chủ thể được phép đăng ký gồm UBND và các Ban của HĐND cấp tỉnh. Quy định này đã không còn đề cập đến việc “Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp đề nghị xây dựng nghị quyết” như quy định tại Khoản 1 Điều 111 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
Theo khoản 1 Điều 44 Nghị định 78 việc đánh giá tác động chính sách khi xây dựng nghị quyết QPPL của HĐND cấp tỉnh chỉ thực hiện trong trường hợp ban hành nghị quyết để “Thực hiện thí điểm các chính sách theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương”. Các trường hợp còn lại chỉ thực hiện tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội có liên quan.
Cũng tại khoản 2 Điều 44, Chính phủ quy định rõ trách nhiệm và nội dung các Sở Tài chính, Tư pháp, Nội vụ phải cho ý kiến khi được cơ quan soạn thảo gửi lấy ý kiến. Trong đó, Sở Tài chính có ý kiến về nguồn tài chính; Sở Nội vụ có ý kiến về việc phân cấp, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp và nguồn nhân lực; Sở Tư pháp có ý kiến về tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất với hệ thống pháp luật.
Quy định về trách nhiệm, thời hạn, nội dung thẩm định của Sở Tư pháp đối với dự thảo nghị quyết HĐND được Điều 45 Nghị định 78 đề cập chi tiết. Theo đó Sở Tư pháp thẩm định 6 nội dung, tăng 02 nội dung so với trước đây. Các nội dung thẩm định gồm: (1) Sự cần thiết ban hành văn bản; phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của văn bản; (2) Sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; (3) Tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật của dự thảo văn bản; (4) Sự cần thiết, tính hợp lý của thủ tục hành chính (nếu có); (5) Nguồn tài chính, nguồn nhân lực; việc phân cấp, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp (nếu có); (6) Ngôn ngữ, thể thức, kỹ thuật trình bày và trình tự, thủ tục soạn thảo văn bản.
Đối với khâu thẩm tra của các Ban HĐND, khoản 1 Điều 47 quy định rõ “Các Ban của Hội đồng nhân dân thẩm tra dự thảo nghị quyết trước khi trình Hội đồng nhân dân”. Tài liệu, hồ sơ gửi thẩm tra được quy định tại khoản 2 Điều 47, trong đó “tờ trình được ký và đóng dấu cơ quan trình, dự thảo văn bản được đóng dấu giáp lai cơ quan trình; các báo cáo được ký và đóng dấu của cơ quan chủ trì soạn thảo, các tài liệu khác được đóng dấu treo của cơ quan chủ trì soạn thảo”.
Về nội dung thẩm tra, so với quy định trước thì nội dung thẩm tra được mở rộng hơn. Cụ thể bao gồm 6 nội dung như quy định về thẩm định nêu trên. Đồng thời báo cáo thẩm tra phải thể hiện quan điểm về những vấn đề thuộc nội dung thẩm tra, kể cả vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Điều 48 quy định về trình tự xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết cơ bản như quy định tại Điều 126 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015. Tuy nhiên quy định về tiếp thu, chỉnh lý dự thảo nghị quyết có điều chỉnh và chi tiết hơn, phân định rõ trách nhiệm cơ quan trình và cơ quan thẩm tra. Theo điểm d khoản 2 Điều 48 “cơ quan trình có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo. Cơ quan trình báo cáo Hội đồng nhân dân về dự thảo đã được chỉnh lý. Cơ quan chủ trì thẩm tra báo cáo Hội đồng nhân dân ý kiến về dự thảo đã được chỉnh lý”.
Đồng thời tại điều khoản này cũng quy định “Trường hợp dự thảo có nội dung quan trọng, phức tạp hoặc còn có ý kiến khác nhau, cần có thêm thời gian để nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý thì Hội đồng nhân dân tự mình hoặc theo đề nghị của cơ quan trình quyết định lùi thời điểm trình Hội đồng nhân dân thông qua”.
Ngoài ra Nghị định 78 cũng đề cập nhiều quy định mới so với trước như: Quy định về phạm vi điều chỉnh của văn bản (Điều 65); quy định về điều khoản sửa đổi, bổ sung (Điều 66); bố trí, sử dụng và chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, người làm công tác xây dựng pháp luật (Điều 73); sử dụng chuyên gia (Điều 75).