Chiều ngày 11.6, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thảo luận tại Hội trường về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính (Luật XLVPHC) là cần thiết vì một số lý do sau: sau hơn 10 năm thực hiện Luật XLVPHC đã phát sinh những vấn đề bất cập; phục vụ yêu cầu cải cách hành chính, phân cấp - phân quyền trong hệ thống chính trị; tăng cường bảo vệ quyền con người, quyền công dân; đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực thi pháp luật quốc tế; tăng cường hiệu quả xử lý và cưỡng chế.

Đại biểu Dương Văn Phước - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Quảng Nam phát biểu thảo luận tại Hội trường
Tham gia phát biểu xây dựng và hoàn thiện luật, đại biểu Dương Văn Phước – Phó trưởng đoàn chuyên trách ĐBQH tỉnh Quảng Nam cho rằng: Tại khoản 2, Điều 1 (bổ sung Điều 18a vào sau Điều 18), việc bổ sung quy định mới mang tính nguyên tắc về xử lý vi phạm hành chính trên môi trường điện tử là rất cần thiết, nhằm tạo cơ sở pháp lý để tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ trong xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, quy định này chỉ mới nêu chung chung về việc xử lý vi phạm trên môi trường điện tử mà chưa cung cấp chi tiết về quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật, hoặc cách thức triển khai. Mặc dù dự thảo luật giao “Chính phủ quy định chi tiết Điều này” nhưng thực tế, đây là quy định mới nên có thể gây khó khăn cho các cơ quan thực thi khi áp dụng, đặc biệt là khi Chính phủ chưa ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn chi tiết: chẳng hạn như trường hợp quy định việc lập biên bản điện tử tại điểm c, khoản 9, Điều 1 của dự thảo luật (sửa đổi bổ sung khoản 4, Điều 58) yêu cầu chữ ký số và dữ liệu chứng minh hành vi vi phạm, nhưng không quy định cụ thể về định dạng dữ liệu, cách lưu trữ, hoặc xử lý khi xảy ra tranh chấp về tính hợp lệ của biên bản điện tử.
Tại khoản 14, Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 70), theo đại biểu để tăng tính minh bạch và tiện lợi, giảm chi phí trong việc gửi quyết định xử phạt vi phạm hành chính để thi hành, đề nghị nghiên cứu, bổ sung thêm 01 điểm quy định về hình thức gửi quyết định xử phạt vi phạm hành chính vào khoản 2, Điều 70 như sau: “Gửi qua cổng dịch vụ công quốc gia hoặc ứng dụng điện tử chính thức của cơ quan nhà nước, đảm bảo xác thực danh tính người nhận”.
Tại khoản 18, Điều 1 (sửa đổi, bổ sung Điều 100) của dự thảo luật quy định: “1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn đọc hồ sơ quy định tại khoản 3 Điều 99 của Luật này, Trưởng Công an cấp xã quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân khu vực để quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng”. Đại biểu đề nghị bổ sung vào sau khoản 1 Điều 100 quy định thời hạn cụ thể như sau: “Tòa án nhân dân khu vực phải xem xét và ra quyết định trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị”, việc bổ sung thời hạn xem xét, ra quyết định của Toà án nhân dân khu vực nhằm hạn chế, khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc xử lý hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng như thời gian vừa qua.
Cũng theo đại biểu, các quy định về lập và chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng (Điều 99), cơ sở giáo dục bắt buộc (Điều 101) hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc (Điều 103) của dự thảo luật yêu cầu thời hạn rất ngắn (từ 02-03 ngày làm việc). Trong thực tế, việc thu thập tài liệu, xác minh lý lịch, hoặc lấy ý kiến từ các bên liên quan có thể mất nhiều thời gian hơn, đặc biệt với các trường hợp phức tạp hoặc người vi phạm không có nơi cư trú ổn định nên đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc, sửa đổi nâng thời hạn này cho phù hợp.
Cuối cùng, đại biểu Dương Văn Phước nhấn mạnh: Luật Xử lý vi phạm hành chính từ khi ban hành đến nay đã sửa đổi, bổ sung 06 lần, các quy định nằm ở nhiều văn bản luật, nghị định, thông tư hướng dẫn khác nhau nên người có thẩm quyền rất khó nghiên cứu, cập nhật và áp dụng, dễ dẫn đến sai sót về trình tự thủ tục ra quyết định xử phạt, quyết định xử lý vi phạm hành chính. Do đó, đề nghị cần tổng kết, đánh giá để sớm ban hành Luật Xử lý vi phạm hành chính mới (trên cơ sở hợp nhất các luật đã sửa đổi, bổ sung và lần sửa đổi này) để các cơ quan có thẩm quyền ban hành nghị định, thông tư hướng dẫn luật thống nhất, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng luật.