Nghị quyết 57-NQ/TW - Đột phá chiến lược đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới
Bài 2: Những hạn chế, vướng mắc
Có thể nói Việt Nam đã đạt kết quả tích cực trong việc tiếp cận với kiến thức khoa học, công nghệ của thế giới và hòa nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, phải nhìn thẳng vào thực tiễn và khó khăn, vướng mắc để thấy rằng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo của nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, cần những giải pháp đồng bộ để trở thành động lực phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Những hạn chế, vướng mắc…
Mặc dầu đã đạt được nhiều thành tựu tích cực nhưng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo của nước ta chưa thực sự trở thành động lực, nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, cho tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và tăng năng suất lao động xã hội. Nhiều quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và địa phương chưa dựa trên cơ sở khoa học chuyên sâu, dẫn đến đầu tư dàn trải, thiếu tính khả thi.
Ngoại trừ một số lĩnh vực đi tắt, đón đầu, có tốc độ đổi mới công nghệ khá nhanh, như công nghệ thông tin - viễn thông, dầu khí, hàng không, tài chính - ngân hàng..., nhìn chung trình độ khoa học - công nghệ quốc gia vẫn còn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực Đông Nam Á. Nhiều doanh nghiệp vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Năng lực hấp thụ và đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các cơ sở giáo dục đại học còn khiêm tốn. Một số nhiệm vụ nghiên cứu chưa bám sát yêu cầu sản xuất và đời sống. Chưa thiết kế được nhiều nhiệm vụ khoa học - công nghệ có tầm vóc và phạm vi tác động sâu rộng liên ngành, do đó mục tiêu của một số chương trình khoa học - công nghệ chưa được như kỳ vọng, chưa tạo được sản phẩm khoa học - công nghệ thực sự mang tính đột phá. Các trường đại học thiên về đào tạo hơn nghiên cứu, nếu có nghiên cứu thì tính ứng dụng không cao.

Nhiều doanh nghiệp vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới.
Đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ tuy có tăng về số lượng nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thiếu các tập thể khoa học mạnh, các chuyên gia đầu ngành có khả năng dẫn dắt các hướng nghiên cứu mới, hoặc chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ quốc gia ở trình độ quốc tế. Hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học - công nghệ công lập chưa cao. Hợp tác quốc tế chưa đi vào chiều sâu, thiếu trọng tâm, chưa chú trọng đến chuyển giao, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến. Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị cho hoạt động khoa học - công nghệ còn thiếu và chưa đồng bộ; máy móc, trang thiết bị của các trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng còn nghèo nàn và lạc hậu.
Bên cạnh đó, hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia ở nước ta trong quá trình hình thành, đang từng bước được hoàn thiện và phần nào còn non trẻ, manh mún. Hoạt động nghiên cứu và phát triển trong khu vực doanh nghiệp còn hạn chế. Số lượng doanh nghiệp theo đuổi các chiến lược về đổi mới sáng tạo còn khiêm tốn. Hoạt động đào tạo trong các cơ sở giáo dục đại học còn thiếu sự gắn kết với nghiên cứu khoa học và với doanh nghiệp.
…và nguyên nhân
Trước hết có thể thấy nhận thức của một số cấp, ngành ở trung ương và địa phương về vai trò của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa đầy đủ, toàn diện. Điều này dẫn đến hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa thực sự tạo động lực cho phát triển khoa học - công nghệ và ứng dụng kết quả khoa học - công nghệ vào sản xuất. Chính sách về đầu tư, mua sắm công chưa tạo được động lực khuyến khích việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới, phát triển công nghệ của doanh nghiệp trong nước. Chính sách và các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp đưa sản phẩm là kết quả của nghiên cứu, phát triển, đổi mới công nghệ tiếp cận các thị trường tiềm năng hiệu quả chưa cao. Một số cơ chế ưu đãi thuế cho đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ còn khó thực thi do các quy định pháp luật chưa đồng bộ. Còn thiếu những cơ chế, chính sách thực sự khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới, nhập khẩu công nghệ, nhất là đối với những ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn để nhanh chóng ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh tạo ra sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao. Liên kết giữa doanh nghiệp với các cơ sở giáo dục đại học và các cơ quan quản lý nhà nước trong đổi mới, ứng dụng, chuyển giao và phát triển công nghệ còn yếu; chưa có cơ chế khuyến khích sử dụng lực lượng lao động của các cơ sở giáo dục đại học tham gia vào hoạt động đổi mới, cải tiến, phát triển công nghệ tại doanh nghiệp.

Liên kết giữa doanh nghiệp với các cơ sở giáo dục đại học trong đổi mới, ứng dụng, chuyển giao và phát triển công nghệ còn yếu
Đối với doanh nghiệp: doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp khó tiếp cận được các nguồn vốn, tín dụng để tiến hành đổi mới công nghệ do vướng mắc về điều kiện tài sản bảo đảm, số năm kinh nghiệm hoạt động... Nhiều doanh nghiệp chưa có tầm nhìn dài hạn về việc cải tiến, đổi mới công nghệ để phát triển bền vững. Các nỗ lực đổi mới công nghệ tại doanh nghiệp còn mang tính nhỏ lẻ, thiếu hệ thống.
Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển khoa học - công nghệ ở nước ta hiện nay là mức chi cho cho khoa học công nghệ chỉ khoảng 0,44% GDP còn khiêm tốn so với bình quân của thế giới là 2,23% (Thái Lan 0,78%; Singapore 2,2%; Malaysia 1,3%, Trung Quốc 2,1%).