Trang chủ > Diễn đàn của đại biểu
Quảng Nam sau 03 năm thực thi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020
Ngày đăng:
8:41 | 31/03/2025
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 17.11.2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.2022. Tại Quảng Nam, sau 03 năm triển khai thi hành Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, công tác bảo vệ môi trường (BVMT) đã đạt những kết quả tích cực
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 17.11.2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01.01.2022. Tại Quảng Nam, sau 03 năm triển khai thi hành Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, công tác bảo vệ môi trường (BVMT) đã đạt những kết quả tích cực. Tuy nhiên, so với quy định pháp luật và yêu cầu thực tiễn thì công tác này vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế. Báo cáo 67 ngày 21.3.2025 của UBND tỉnh gửi Đoàn giám sát Quốc hội đã đề cập nhiều vấn đề bất cập; đồng thời kiến nghị tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường trong thời gian đến.
Kiểm soát tốt ô nhiễm môi trường
Theo báo cáo của UBND tỉnh, trong 03 năm (2022-2024), UBND tỉnh đã kịp thời trình HĐND tỉnh và ban hành theo thẩm quyền các quy định để cụ thể hóa pháp luật về BVMT phù hợp với thực tiễn địa phương. Như trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết 34/2021/NQ-HĐND về Chương trình hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp giai đoạn 2021-2025, Nghị quyết số 06/2022/NQ-HĐND về chính sách khuyến khích xã hội hóa đầu tư trong một số lĩnh vực giai đoạn 2022- 2025; Nghị quyết số 07/2022/NQ-HĐND quy định mức thu, đối tượng thu, nộp, chế độ quản lý, sử dụng phí thẩm định cấp, cấp lại, điều chỉnh giấy phép môi trường; Nghị quyết số 01/2020/NQ-HĐND về cơ chế ưu đãi đầu tư khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt tập trung; các quyết định của UBND tỉnh về xây dựng, quản lý, sử dụng nghĩa trang và cơ sở hỏa táng; quy định công tác quản lý, BVMT; quy định quản lý hoạt động thoát nước và xử lý nước thải.
Bên cạnh đó, nguồn lực tài chính đầu tư cho công tác BVMT cũng được địa phương quan tâm, ưu tiên. Theo thống kê, giai đoạn 2022 - 2024, ngân sách tỉnh bố trí 576.213 triệu đồng chi thường xuyên cho sự nghiệp BVMT (chiếm tỷ lệ trên 1% so với tổng chi ngân sách nhà nước). Ngân sách đầu tư công bố trí 926.001 triệu đồng/1.955.803 triệu đồng (tổng mức đầu tư) cho 08 dự án về BVMT (có 02 dự án kết hợp nguồn vốn nước ngoài); bố trí 404.641 triệu đồng kết hợp 913.153 triệu đồng huy động vốn ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài cho 07 dự án đầu tư thuộc Chương trình ứng phó biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh; bố trí 20.000 triệu đồng hỗ trợ cho các địa phương có khu xử lý rác thải tập trung thực hiện đầu tư nâng cấp hạ tầng thiết yếu thực hiện Nghị quyết số 01/2020/NQ-HĐND. Ngoài ra, bố trí 7.166 triệu đồng cho các dự án cấp nước sạch tập trung trên địa bàn tỉnh.
Việc sử dụng công cụ kinh tế cho công tác BVMT cũng được thực hiện hiệu quả thông qua công tác thu phí thẩm định hồ sơ môi trường, cấp Giấy phép môi trường, phí nước thải công nghiệp, phí BVMT, ký quỹ phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản.
Với những giải pháp đã triển khai, các “điểm nóng” về ô nhiễm môi trường, các nguồn thải lớn (KCN, CCN, cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ lớn, cơ sở tiềm ẩn nguy cơ) tiếp tục được kiểm soát, không xảy ra sự cố môi trường lớn; khắc phục, xử lý hoàn thành và không làm phát sinh các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Môi trường tại các khu công nghiệp, khu vực nông thôn, khu dân cư được cải thiện. Công tác quy hoạch, xử lý CTR sinh hoạt, chất thải nguy hại được quan tâm, chú trọng thực hiện. Công tác truyền thông, nâng cao nhận thức về môi trường, nhiều phong trào, mô hình điển hình về BVMT đã đi vào cuộc sống. Ý thức chấp hành các quy định pháp luật về BVMT tại các doanh nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, thành lập, mở rộng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên, di sản thiên nhiên được đẩy mạnh.
Còn nhiều hạn chế
Với những đặc thù riêng có của công tác quản lý nhà nước về BVMT, trước những thách thức và yêu cầu ngày càng cao về BVMT, Quảng Nam cũng như các địa phương khác cũng bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế.
Báo cáo của UBND tỉnh đề cập thực trạng “đầu tư hạ tầng thu gom và xử lý nước thải tại CCN, làng nghề, hạ tầng cấp nước sạch đô thị và khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra” khi chỉ có khoảng 10% nước thải khu vực đô thị được thu gom, xử lý và hầu hết khu vực dân cư nông thôn chưa có hệ thống thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt tập trung. Và nhấn mạnh “đây được xem là một trong những thách thức đối với chất lượng nguồn nước một số lưu vực sông trên địa bàn trong thời gian đến”.
Về cơ bản kiểm soát tốt tình trạng ô nhiễm môi trường nhưng khiếu kiện trong quá trình hoạt động của các nhà máy, cơ sở, hoạt động chăn nuôi quy mô hộ gia đình xen lẫn trong khu dân cư vẫn còn xảy ra ở một số địa phương; một số cơ sở, nhà máy đang hoạt động trong khu dân cư không đảm bảo khoảng cách an toàn môi trường vẫn chưa có giải pháp xử lý triệt để, chưa thực hiện phương án di dời,...
Đầu tư các khu xử lý CTR sinh hoạt tập trung theo quy hoạch để chủ động trong công tác xử lý rác thải phát sinh trên địa bàn, ứng phó khi có sự cố xảy ra tại các khu xử lý rác tập trung của tỉnh chưa được các địa phương thực hiện. Đến nay cũng chưa có địa phương nào thực hiện thỏa thuận, chia sẻ trách nhiệm, chi phí với địa phương khác khi họ có khu xử lý rác thải cho địa phương mình trong khi đây được xem là giải pháp thể hiện trách nhiệm địa phương trong xử lý CTR sinh hoạt. Cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư khu xử lý rác đã có (Nghị quyết số 01/2020/NQ-HĐND) nhưng công tác xúc tiến, kêu gọi nhà đầu tư các dự án khu, nhà máy xử lý rác thải vẫn chưa đạt nhiều kết quả, nhất là khu vực miền núi.
Nhiều hoạt động truyền thông, giảm thiểu, thay thế nhựa dùng một lần, túi nilon khó phân hủy được triển khai, thế nhưng với thực tế giá thành của túi nilon khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần quá rẻ, mang tính thuận tiện, việc thay đổi thói quen, nhận thức của người tiêu dùng là một thách thức rất lớn. Cạnh đó, tình trạng thiếu nguồn lực đầu tư trang thiết bị hỗ trợ thực hiện phân loại CTR tại nhà, phương tiện thu gom vận chuyển, xử lý rác thải sau phân loại còn nhiều khó khăn, bất cập, thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu quả công tác phân loại, giảm thiểu chất thải nhựa trên địa bàn tỉnh vẫn chưa có nhiều chuyển biến tích cực.
Một vấn đề khác cũng được UBND tỉnh đề cập là “công nghệ sản xuất trong một số cơ sở sản xuất nhìn chung còn lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, nước, sử dụng tài nguyên kém hiệu quả”. Đồng thời nhấn mạnh “đây sẽ là thách thức lớn khi trên thế giới hiện đang có xu thế dịch chuyển các loại hình sản xuất gây ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển để giảm chi phí xử lý môi trường”.
Kiến nghị giải pháp
Điều kiện nhân lực, kinh phí, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý nhà nước về BVMT còn bất cập là nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến năng lực quản lý, tổ chức thực hiện pháp luật về BVMT. Trong thời gian đến, địa phương sẽ tiếp tục có giải pháp khắc phục các bất cập về nhân lực, kinh phí.
Từ thực trạng thi hành pháp luật về BVMT trong giai đoạn 2022-2024 và các hạn chế, chậm trễ trong ban hành quy định chi tiết như: nội dung quy định pháp luật về môi trường theo Nghị định, Thông tư quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT còn bất cập, khó thực thi trong điều kiện thực tế; văn bản quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 thuộc thẩm quyền ban hành của trung ương chậm ban hành khiến địa phương lúng túng trong triển khai thực hiện. UBND tỉnh cũng kiến nghị hoàn thiện thể chế, chính sách. Cụ thể kiến nghị các cơ quan trung ương đẩy nhanh tiến độ xây dựng, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản QPPL, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường để tạo cơ sở pháp lý cho công tác triển khai thực hiện một số nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương.
Nghiên cứu, đề xuất các chính sách, hỗ trợ kinh phí cho địa phương trong việc đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật xử lý nước thải đối với các đối tượng công ích như bệnh viện, CCN, làng nghề ô nhiễm và xử lý, khắc phục các điểm tồn hóa chất bảo vệ thực vật; mạng lưới hệ thống quan trắc, cảnh báo, ứng phó sự cố môi trường liên vùng. Ban hành cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút nguồn lực xã hội hóa các hoạt động bảo vệ môi trường, đẩy mạnh phát triển nền kinh tế tuần hoàn, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng, quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tác giả:
Thanh Thanh
BÀI LIÊN QUAN:
Dự thảo quy định chính sách hỗ trợ đối với người hoạt động không chuyên trách ( Ngày đăng: 16:32 | 30/05 )Kịp thời ban hành chính sách hỗ trợ khi thực hiện chủ trương kết thúc sử dụng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là nội dung được các địa phương, đại biểu Quốc hội kiến nghị trong thời gian qua, kể từ sau khi có chủ trương, kết luận của Trung ương. Sau thời gian tổng hợp đề xuất từ các địa phương, mới đây Bộ Nội vụ đã có dự thảo Tờ trình và dự thảo Nghị định quy định về chính sách tinh giản biên chế (thay thế Nghị định 29/2023/NĐ-CP). Trong các dự thảo này, cơ quan soạn thảo đã đề xuất chính sách cụ thể đối với đối tượng người hoạt động không chuyên trách (NHĐKCT) ở cấp xã và ở thôn, tổ dân phố.
Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp xã ( Ngày đăng: 16:26 | 12/05 )Theo chương trình nghị sự, kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV sẽ thảo luận và thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi). Đây là vấn đề quan trọng, thu hút sự quan tâm của cử tri cả nước về cơ cấu tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương hai cấp