Chuyển đổi số - Con đường tất yếu để phát triển
Bài 3: Những nỗ lực của Việt Nam trong hành trình chuyển đổi số
Qua 4 năm triển khai thực hiện, Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ đã đạt được những kết quả tích cực. Công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện đã quyết liệt, bài bản, đồng bộ với quyết tâm cao từ Trung ương đến cơ sở, bám sát thực tiễn và mang lại hiệu quả thiết thực, được người dân, doanh nghiệp ủng hộ, tham gia tích cực hơn. Niềm tin của các cấp, các ngành, các địa phương, người dân và doanh nghiệp được củng cố và nâng lên, góp phần truyền cảm hứng và tạo động lực phát triển mới.
Từng bước hoàn thiện thể chế nhằm đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số
Thực hiện chuyển đổi số không chỉ đơn thuần là ứng dụng công nghệ thông tin mà là thay đổi tư duy, phương pháp, quy trình, mô hình quản lý nhà nước, quản trị xã hội, doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp, tổ chức và từng người dân. Với sự vào cuộc, quyết tâm của toàn hệ thống chính trị, triển khai xuyên suốt, đồng bộ từ trung ương đến địa phương Chương trình chuyển đổi số quốc gia đã đạt nhiều kết quả trên các lĩnh vực. Đã phổ cập và cá nhân hoá nhiều dịch vụ thiết yếu, như: dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế, bảo hiểm xã hội… tới từng người dân, nhằm phục vụ người dân tốt hơn. Đồng thời, tạo ra cơ hội cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo tiếp cận dịch vụ trực tuyến một cách công bằng, bình đẳng và nhân văn rộng khắp, để “không ai bị bỏ lại phía sau". Chuyển đổi số là quá trình thay đổi toàn diện của các cá nhân, tổ chức về cách làm việc và cách sống dựa trên nền tảng công nghệ số. Nó đòi hỏi không chỉ sự đổi mới, sáng tạo và ứng dụng các công nghệ tiên tiến mà còn sự kiến tạo và hoàn thiện các thể chế liên quan.

Xây dựng chính sách để tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số
Theo đánh giá của Ủy ban Quốc gia về Chuyển đổi số, từ năm 2020 đến nay, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc để từng bước hoàn thiện thể chế nhằm đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số ở nước ta. Quốc hội đã ban hành Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Công nghệ cao, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ; ngoài ra có 12 luật, 42 nghị định, 131 thông tư khác có liên quan, điều chỉnh, tác động trực tiếp tới hoạt động chuyển đổi số quốc gia, chuyển đổi số ngành, lĩnh vực.
Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được xem là đột phá chiến lược đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới.
Nhận thức và hành động về chuyển đổi số quốc gia tiếp tục chuyển biến tích cực, từng bước chuyển đổi nhận thức, thay đổi thói quen, có sự lan tỏa ở các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là người đứng đầu. Hoạt động quản lý nhà nước từ phương thức truyền thống sang môi trường số được đẩy mạnh và đạt một số kết quả tích cực. Căn cứ chủ trương, định hướng của Đảng và các quy định của pháp luật của các cơ quan Trung ương, cấp ủy đảng, chính tất cả các địa phương đều có văn bản cụ thể hóa trong triển khai thực hiện, phù hợp với tình hình thực tiễn góp phần tích cực vào quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Chuyển đổi phương thức quản lý, điều hành để phục vụ người dân tốt hơn
Các nền tảng, hệ thống phục vụ công tác quản lý, điều hành, tác nghiệp trong cơ quan nhà nước trên môi trường số đã có bước tiến vượt bậc: năm 2020, hồ sơ công việc tại cấp bộ được xử lý trên môi trường mạng đạt mức 65,8%, đến nay, tỷ lệ này đạt là 89,35%. Trao đổi văn bản điện tử giữa các cơ quan nhà nước, trước đây các hệ thống quả lý văn bản điều hành của các bộ, ngành, địa phương đa số còn rời rạc, chưa kết nối để liên thông văn bản điện tử. Đến nay, 100% hệ thống quản lý văn bản và điều hành của các bộ, ngành, địa phương đã được kết nối thông suốt nhờ triển khai Trục liên thông văn bản quốc gia. Tổng số có 98% các cơ quan đã gửi, nhận văn bản điện tử và 80% lãnh đạo các cấp đã sử dụng chữ ký số chuyên dùng cá nhân.
Về giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp: năm 2010 cả nước chỉ có 04 dịch vụ công trực tuyến mức cao nhất, chiếm 0,004% tổng số dịch vụ công và mức độ tăng trưởng rất chậm trong giai đoạn 10 năm tiếp theo (năm 2019 mới chỉ đạt gần 11%). Từ năm 2020, việc triển khai dịch vụ công trực tuyến có bước tăng trưởng đột phá, đến nay tỷ lệ này cả nước đạt trên 55%, tăng gấp 5 lần so với giai đoạn 10 năm trước đó.

Hội nghị trực tuyến giữa Trung ương và địa phương đã góp phần tiết kiệm thời gian, công sức trong quản lý, điều hành của Nhà nước
Để phục vụ cho chuyển đổi số, Việt Nam đã chú trọng phát triển dữ liệu số. Cơ sở pháp lý về cơ sở dữ liệu đã có bước tiến vượt bậc: Nghị định quy định về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu ra đời năm 2020 đã giải quyết căn bản việc kết nối, chia sẻ dữ liệu trước đó còn thực hiện tự phát. Luật Giao dịch điện tử năm 2023 và Nghị định quy định về danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia; việc xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia năm 2024 đã hoàn thiện hệ thống pháp luật về dữ liệu, đảm bảo định hướng dữ liệu trong cơ quan nhà nước là thống nhất, phân cấp và được quản lý. Nếu trước năm 2020 chỉ có cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp được đưa vào vận thành thì đến nay các cơ sở dữ liệu quốc gia quan trọng như dân cư, doanh nghiệp, bảo hiểm đã hoàn thành, các cơ sở dữ liệu khác cũng đang gấp rút hoàn thiện.
Chuyển đổi số phục vụ người dân, an sinh xã hội có bước phát triển mạnh mẽ, từng bước hình thành xã hội số, công dân số, nổi bật trên các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, khám chữa bệnh, bảo hiểm xã hội, chi trả an sinh xã hội, tư pháp…; mới đây đã triển khai toàn quốc việc tích hợp Sổ sức khỏe điện tử và cung cấp phiếu Lý lịch tư pháp trong nền tảng VNeID.
Những nỗ lực của Việt Nam trong hành trình chuyển đổi số thời gian qua đã được quốc tế ghi nhận, thể hiện rõ qua xếp hạng phát triển Chính phủ điện tử của quốc gia tăng vượt bậc. Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử năm 2024 tăng 15 bậc, xếp hạng 71/193; Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024 tăng 2 bậc, xếp hạng 44/133; Chỉ số an toàn, an ninh mạng toàn cầu năm 2024 tăng 8 bậc, xếp hạng 17/194. Lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm chỉ số phát triển chính phủ điện tử ở mức “Rất cao” và vươn lên vị trí xếp hạng cao nhất kể từ khi bắt đầu tham gia đánh giá của Liên Hợp quốc năm 2003. Kết quả này phản ánh những nỗ lực, quyết tâm của Việt Nam trong thực hiện chuyển đổi số, đã gặt hái những thành quả và được quốc tế ghi nhận.
Chuyển đổi số thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Báo cáo của Google đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế số Việt Nam nhanh nhất Đông Nam Á trong 2 năm liên tiếp (2022 đạt 28%, 2023 đạt 19%), cao gấp 3,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Chiến lược phát triển kinh tế số và xã hội số đặt ra mục tiêu tỷ trọng kinh tế số trong GDP năm 2025 tối thiểu 20%, năm 2030 tối thiểu 30%. Thực tế ước tính tỷ trọng này năm 2021 ước đạt 11,91%, năm 2022 ước đạt 14,26%, năm 2023 ước đạt 16,5%, trong đó tỷ trọng kinh tế số lõi ICT chiếm hơn 60%, kinh tế số ngành, lĩnh vực chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 40%. Tốc độ phát triển kinh tế số của Việt Nam vào khoảng 20%/năm, gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP.
Sau hơn 4 năm phát động chuyển đổi số, tỷ lệ cá nhân, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp có thể dễ dàng gửi nhận hóa đơn điện tử với nhau và với cơ quan thuế sử dụng nền tảng công nghệ số 100%. Trong lĩnh vực ngân hàng, hiện nay mỗi ngày có từ 20 đến 25 triệu giao dịch qua hệ thống chuyển mạch tài chính, xử lý bình quân 830 nghìn tỷ đồng.
Công nghiệp công nghệ thông tin có bước phát triển, tác động lan tỏa tích cực đến nhiều ngành, lĩnh vực với 51 nghìn doanh nghiệp công nghệ số và tạo 1,5 triệu việc làm; nhiều dự án đầu tư mới, mở rộng sản xuất, lắp ráp với giá trị hàng tỷ USD của Samsung, Qualcomm, Infineon, Amkor…

Viettel là đơn vị có nhiều đóng góp tích cực vào Chương trình chuyển đổi số quốc gia
Số hóa các ngành kinh tế đạt nhiều kết quả tích cực: nhiều doanh nghiệp đã đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý, đầu tư, xây dựng, sản xuất và ứng dụng nhiều công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây, internet vạn vật… Thương mại điện tử tiếp tục có bước phát triển mạnh mẽ, thuộc nhóm 10 nước có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới (doanh thu năm 2023 đạt 20,5 tỷ USD, tăng 23%; dự kiến năm 2024 đạt 27,7-28 tỷ USD tăng 36% - cao nhất 10 năm qua); thanh toán không dùng tiền mặt được triển khai rộng khắp cả nước.
Quá trình xây dựng xã hội số giai đoạn 2022 - 2024 cũng có những chuyển biến tích cực, trong đó tỷ lệ người dân ở độ tuổi trưởng thành có chữ ký số hoặc chữ ký điện tử tăng từ mức 3% lên 13,5% (tăng gần gấp 4 lần); tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có tài khoản giao dịch thanh toán tại ngân hàng hoặc tổ chức được phép khác đạt 87,08%. Về phát triển công dân số, đến tháng 12/2023, Bộ Công an đã cấp trên 84,7 triệu thẻ căn cước công dân gắn chip. Đã kích hoạt 45,4 triệu tài khoản định danh (đạt 67,5% so với tổng hồ sơ tiếp nhận). Ứng dụng VNeID đã được tích hợp thêm các tiện ích: sổ sức khỏe điện tử; giấy phép lái xe; ví điện tử; kê khai, đăng ký, nộp thuế; thông tin sổ bảo hiểm xã hội và nhiều tiện ích khác.