Cần thường xuyên theo dõi, rà soát việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập
Người đăng:
dangtin
Ngày đăng:
8:16 | 15/11
Lượt xem:
56
Bởi theo quy định hiện nay, tuỳ theo mức độ tự chủ về tài chính, các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ được hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau, tác động trực tiếp đến nguồn lực hoạt động, tính ổn định của từng đơn vị và liên quan đến cân đối nguồn lực ngân sách nhà nước.
Quy định pháp luật liên quan
Theo quy định tại Nghị định 60/2021/NĐ-CP, mức tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập được phân thành 4 nhóm, theo đó, cơ chế tự chủ về tài chính, nhân sự và một số nội dung có liên quan đối với từng nhóm cũng có sự khác nhau.
Đối với đơn vị nhóm 1,2 sẽ có quyền chủ động nhiều hơn trong việc thực hiện bố trí nhân sự, ký kết hợp đồng lao động, thực hiện các định mức, chế độ chi tiêu…như: được ký kết hợp đồng lao động để làm công việc chuyên môn, nghiệp vụ ở vị trí việc làm do viên chức đảm nhiệm theo nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực của đơn vị, được quyết định chi chuyên môn và quản lý cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị….
Thường trực HĐND tỉnh làm việc với Sở Tài chính
Trong khi đó, đơn vị nhóm 3, nhóm 4 sẽ có những ràng buộc, hạn chế nhất định. Chẳng hạn như về ký kết hợp đồng chuyên môn, nghiệp vụ thì đơn vị nhóm 3 ký kết hợp đồng lao động làm công việc chuyên môn, nghiệp vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực còn thiếu so với định mức số lượng người làm việc do bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành. Đơn vị nhóm 4 được ký kết hợp đồng lao động có thời gian không quá 12 tháng để làm công việc ở vị trí việc làm chức danh nghề nghiệp chuyên ngành và vị trí việc làm chức danh nghề nghiệp chuyên môn dùng chung để bổ sung nhân lực còn thiếu so với số lượng người làm việc được cấp có thẩm quyền giao hoặc để kịp thời thay cho số viên chức nghỉ thai sản, thôi việc, nghỉ hưu; trong đó đối với đơn vị nhóm 4 thuộc lĩnh vực sự nghiệp giáo dục và y tế có giới hạn số lượng người ký kết hợp đồng lao động. Liên quan về thực hiện các định mức, chế độ chi tiêu thì đối với đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên dưới 70% thuộc nhóm 3 và nhóm 4 thì thì chỉ được quyết định chi chuyên môn và quản lý tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Bù lại, đơn vị nhóm 3 và nhóm 4 sẽ được ngân sách hỗ trợ nhiều hơn, ví dụ như về nguồn kinh phí thực hiện cải cách tiền lương khi Nhà nước điều chỉnh chính sách tiền lương: Đơn vị nhóm 1, 2 tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị, ngân sách nhà nước không cấp bổ sung. Đơn vị nhóm 3 được sử dụng nguồn thu để lại, phần tiết kiệm chi thường xuyên và sắp xếp từ nguồn dự toán ngân sách nhà nước được giao để bảo đảm nguồn thực hiện cải cách chính sách tiền lương; ngân sách nhà nước chỉ cấp bổ sung sau khi đơn vị sử dụng hết Quỹ bổ sung thu nhập và nguồn trích lập cải cách tiền lương. Đơn vị nhóm 4 thực hiện từ phần tiết kiệm chi thường xuyên nguồn ngân sách tăng thêm hằng năm và sắp xếp từ nguồn dự toán ngân sách nhà nước được giao để thực hiện cải cách chính sách tiền lương; ngân sách nhà nước chỉ cấp bổ sung sau khi đơn vị sử dụng hết nguồn trích lập cải cách tiền lương.
Thực trạng thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập
Trên cơ sở các quy định, hướng dẫn của Trung ương về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, UBND tỉnh đã kịp thời chỉ đạo triển khai, hướng dẫn các đơn vị thực hiện phân loại mức độ tự chủ, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các đơn vị nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động. Theo đó, UBND tỉnh đã ban hành quyết định phân loại và giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị theo từng thời kỳ. Tính đến cuối năm 2022, tỉnh Quảng Nam đã có 879/894 đơn vị đã thực hiện cơ chế tự chủ, chiếm tỷ lệ 98,3%, bao gồm: 2 đơn vị nhóm 1; 29 đơn vị nhóm 2; 110 đơn vị nhóm 3 và 738 đơn vị nhóm 4.
Sau khi thực hiện phân loại và giao quyền tự chủ cho các đơn vị, UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo các ngành chức năng tăng cường công tác quản lý nhà nước, kịp thời tham mưu ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành liên quan đến việc thực hiện cơ chế tự chủ; quan tâm theo dõi, hướng dẫn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để các đơn vị phát huy cơ chế tự chủ nhằm từng bước đổi mới công tác tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Chú trọng rà soát, sắp xếp, kiện toàn, xây dựng phương án cắt giảm nhân sự phù hợp với các quy định pháp luật và tình hình thực tế, đảm bảo tinh gọn, hiệu quả theo tinh thần, quan điểm chỉ đạo Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 và Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/5/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, theo đó thời gian qua tỉnh đã thực hiện giải thể Trung tâm Tư vấn và Phục vụ đối ngoại (đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Ngoại vụ), sáp nhập Trung tâm Công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường vào Văn phòng Đăng ký đất đai (đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường), Bến xe khách huyện sáp nhập Ban Quản lý Dự án - Quỹ đất huyện…;
Căn cứ vào mức độ tự chủ được xếp loại và chức năng nhiệm vụ được giao, các đơn vị sự nghiệp công lập cũng đã chủ động xây dựng chương trình kế hoạch, xây dựng đề án vị trí việc làm, thực hiện nhiều giải pháp để kịp thời bổ sung số lượng người làm việc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu công việc; tăng cường quản lý tài chính, sử dụng tài sản công, thực hiện kịp thời các chế độ, chính sách đối với người lao động, quản lý và sử dụng các quỹ, chủ động đề ra nhiều giải pháp để duy trì ổn định bộ máy hoạt động, thực hiện tốt nhiệm vụ thành phố giao, góp phần cùng các cơ quan, địa phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Bên cạnh những mặt thuận lợi, việc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập cũng gặp không ít những khó khăn, vướng mắc:
Công tác phối hợp, theo dõi hướng dẫn triển khai thực hiện cơ chế tự chủ các đơn vị sự nghiệp công lập chưa thường xuyên, nhiều khó khăn, vướng mắc của các đơn vị chưa được kịp thời tháo gỡ và đề xuất giải quyết bất cập. Việc rà soát, xác định, đề xuất nâng mức độ tự chủ một số đơn vị chưa thực hiện theo lộ trình phù hợp.
Một số đơn vị sự nghiệp công lập chưa tích cực phát huy tính chủ động, chưa thật sự quan tâm, mạnh dạn quyết định các giải pháp đổi mới, cải tiến phương thức hoạt động, còn tâm lý e ngại khi thay đổi cơ chế quản lý, còn mang tính ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
Việc thực hiện cơ chế tự chủ và duy trì mức độ tự chủ nhóm 1, 2 ở đa số đơn vị gặp khó khăn, trong một số trường hợp phải đề xuất điều chỉnh mức tự chủ của một số đơn vị sang nhóm 3,4, điều này làm tác động ảnh hưởng trực tiếp đến cân đối ngân sách của địa phương cũng như việc sắp xếp bố trí nguồn nhân lực của đơn vị.
Một số đơn vị được giao tự chủ song chưa tự chủ “thực chất” do còn nhiều ràng buộc liên quan đến bộ máy, con người, bố trí nhân sự, biên chế. Việc giao dự toán chi khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế còn chưa phù hợp với một số bệnh viện, giá dịch vụ y tế chưa tính đúng, tính đủ chi phí trong khi các bệnh viện phải tự chủ kinh phí chi thường xuyên nên ảnh hưởng đến việc cân đối thu chi của bệnh viện, đặc biệt là các bệnh viện có nguồn thu thấp.
Việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo tự đảm bảo một phần chi thường xuyên (nhóm 3) vẫn đang những trở ngại bởi thực tế mức độ tự chủ về tài chính tuỳ thuộc biến động nguồn thu, song nguồn thu lại phụ thuộc khá lớn vào số lượng học sinh theo từng năm, trong khi đó có năm số lượng học sinh có sự tăng trưởng vượt bậc, có năm khá lại khá ít nên phân định ranh giới giữa nhóm 3, 4 cũng dễ thay đổi.
Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập năm sau giảm hơn năm trước, tuy nhiên việc tổ chức, giảm đầu mối, sắp xếp lại các đơn vị đơn vị sự nghiệp công lập còn kéo dài thời gian do các cơ quan quản lý, đơn vị chủ quản, các đơn vị đơn vị sự nghiệp công lập chưa nhận thức đầy đủ, thiếu quyết liệt và đồng bộ trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
Các đơn vị sự nghiệp thực hiện cơ chế tự chủ đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, trong đó hầu hết có quy định sử dụng nguồn tiết kiệm chi để chi thu nhập tăng thêm hàng tháng cho cán bộ công chức, viên chức và người lao động; tuy nhiên, việc thực hành tiết kiệm kinh phí tự chủ còn nhiều hạn chế, đơn vị chưa quy định cụ thể phương thức thực hiện. Việc ban hành quy chế quản lý, sử dụng tài sản công chưa xác định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của từng bộ phận, từng cá nhân và mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận, cá nhân trong từng khâu, từng việc của quy trình quản lý, sử dụng, khai thác tài sản nên chưa thật sự mang lại hiệu quả.
Theo quy định, ngân sách nhà nước chuyển từ hỗ trợ cho các đơn vị sự nghiệp công lập sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng người nghèo, đối tượng chính sách thông qua sử dụng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu; chuyển từ hỗ trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công căn cứ vào chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công…Tuy nhiên, theo phản ảnh các địa phương, đơn vị, hiện nay một số định mức kinh tế - kỹ thuật đơn giá dịch vụ, danh mục sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước trên từng lĩnh vực…chưa được ban hành đầy đủ, chậm điều chỉnh, bổ sung phù hợp với thực tiễn hoặc chưa được hướng dẫn cụ thể nên các đơn vị khá lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện. Bên cạnh đó việc xây dựng và ban hành các định mức kinh tế - kỹ thuật đối với các dịch vụ sự nghiệp công rất phức tạp, đòi hỏi nhiều công sức và kinh phí, các đơn vị và địa phương còn nhiều lúng túng, chưa quan tâm đúng mức đối với nội dung này, đồng thời các đơn vị cũng chưa có nguồn lực để thực hiện.
Ngoài ra, do vẫn còn tác động của đại dịch bệnh Covid-19 nên hầu hết các đơn vị còn bị tác động khá lớn, đặc biệt là các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực y tế.
Kiến nghị, đề xuất
Như đã phân tích, mức độ tự chủ các đơn vị sự nghiệp công lập ảnh hưởng tác động nhất định đến nguồn lực ngân sách nhà nước. Do vậy, làm thế nào để nâng cao hiệu quả các đơn vị, qua đó góp phần tạo chủ động cho các đơn vị và đồng thời cũng làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước là điều hết sức cần thiết. Do vậy, ngoài nỗ lực của các đơn vị sự nghiệp công lập, các ngành chức năng cũng cần hết sức quan tâm, theo dõi, hỗ trợ, kịp thời, có giải pháp tháo gỡ khó khăn để tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp công lập duy trì tính bền vững, đảm bảo mức độ tự chủ tài chính ổn định, từng bước nâng mức độ tự chủ đối với một số đơn vị, giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.
Thường xuyên theo dõi, thực hiện rà soát, đánh giá việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập đảm bảo thực chất, xem xét đầy đủ các yếu tố tác động để xác định mức độ tự chủ phù hợp; rà soát, đề xuất nâng mức độ tự chủ đảm bảo theo lộ trình phù hợp.
Kịp thời rà soát, kiến nghị cấp thẩm quyền sửa đổi, bổ sung danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc phạm vi quản lý của địa phương phù hợp với tình hình thực tế trong từng thời kỳ; ban hành, sửa đổi, bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí (nếu có) làm cơ sở ban hành đơn giá, giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về để làm cơ sở giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung ứng dịch vụ sự nghiệp công để các đơn vị thực hiện hiệu quả cơ chế tự chủ tài chính và các quy định của pháp luật….
Thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm trong hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và tổ chức thực hiện các nội dung khác về trách nhiệm quản lý nhà nước đối với dịch vụ sự nghiệp công và đơn vị sự nghiệp công thuộc phạm vi quản lý của địa phương.
Về phía các đơn vị công lập
Tiếp tục tăng cường giải pháp quản lý nguồn thu, chống thất thu, các biện pháp tăng thu, ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng khoa học công nghệ …, tranh thủ tìm kiếm và khai thác tối đa nguồn lực từ các chương trình, dự án trong và ngoài nước…để đảm bảo tự chủ và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Thực hiện rà soát, củng cố bộ máy, phân công hợp lý theo vị trí, việc làm, từng bước tinh gọn bộ máy để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tiếp tục đổi mới phương thức quản lý, có giải pháp nâng cao năng lực công tác quản trị nội bộ, nâng cao chất lượng nghiệp vụ chuyên môn gắn với phúc lợi của người lao động, tạo điều kiện cho viên chức, người lao động yên tâm công tác, gắn bó lâu dài với công việc để ổn định bộ máy tổ chức, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Tăng cường giải pháp quản lý, sử dụng tài sản công đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả tài sản. Hằng năm xây dựng, điều chỉnh, bổ sung và tổ chức thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế sử dụng tài sản công, quy chế dân chủ cơ sở… đảm bảo công khai, minh bạch, đúng quy định.
Chủ động rà soát chức năng nhiệm vụ được giao, kiến nghị, đề xuất bổ sung hoặc chuyển giao một số nhiệm vụ phù hợp với quy định để nâng cao hiệu quả hoạt động, duy trì và từng bước tăng mức độ tự chủ tài chính của đơn vị.
Tác giả:
Bảo Hân
[Trở về]
Các tin mới:
Các tin khác: